Thuở ban đầu, khoa chỉ là ban Văn - Sử gồm 9 cán bộ do thầy Lê Hoài Nam làm trưởng ban; trong đó có 6 cán bộ giảng dạy văn học, được thành lập cùng ban Toán - Lý để làm nòng cốt cho Phân hiệu Đại học Sư phạm Vinh đóng ngay tại trung tâm thành phố Vinh, trái tim của quê hương Xô viết Nghệ Tĩnh. Năm học 1961- 1962, Phân hiệu Đại học Sư phạm Vinh chính thức mang tên Trường Đại học Sư phạm Vinh; theo đó, ban Văn – Sử cũng chuyển thành khoa Văn và bước vào một giai đoạn phát triển mới, với số lượng cán bộ được bổ sung không ngừng và quy mô đào tạo ngày càng mở rộng.

Thời kỳ xây dựng và phát triển trong điều kiện hòa bình của khoa Văn nói riêng, trường Đại học Sư phạm Vinh nói chung quá ngắn ngủi. Năm 1964, khi đế quốc Mỹ đem bom đạn tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, thầy trò khoa Văn cùng với cán bộ, sinh viên toàn trường bước vào một cuộc “trường chinh” gian khổ: cõng sách trên vai, sơ tán đến những vùng quê còn tương đối an toàn của miền Thanh Nghệ, tự dựng nhà, dựng lán, tích cực tăng gia cải thiện đời sống để tiếp tục sự nghiệp đào tạo. Từ 1965 đến 1972, khoa Văn đã lần lượt đóng “đại bản doanh” tại 8 địa điểm thuộc 8 huyện: Nghi Lộc (1965), Thanh Chương (1965), Hà Trung (1966), Vĩnh Lộc (1966), Thạch Thành (1967 - 1969), Hoằng Hoá (1969), Quỳnh Lưu (1969 - 1972), Yên Thành (1972). 8 năm sơ tán là 8 năm đầy thử thách đối với thầy trò khoa Văn. Vượt lên bom đạn, vượt lên điều kiện sinh hoạt cực kỳ kham khổ, vượt lên tình trạng thiếu thốn tài liệu giảng dạy và học tập, khoa Sư phạm Ngữ Văn không chỉ đảm bảo mà còn luôn nâng cao chất lượng đào tạo. Những ý tưởng sáng tạo vẫn nảy nở, những Hội nghị, Hội thảo khoa học vẫn được tổ chức thường xuyên, gây tiếng vang rộng rãi trên phạm vi các trường đại học toàn miền Bắc. Những buổi sinh hoạt văn nghệ, hát, hò, diễn kịch, những buổi đón tiếp các nhà văn nhà thơ nổi tiếng về nói chuyện luôn tạo được không khí lạc quan, có sức động viên tinh thần rất lớn đối với cả thầy lẫn trò. Cũng trong những ngày lửa bỏng này, nhiều sinh viên khoa ta đã lên đường vào Nam chiến đấu. Có 8 đồng chí đã anh dũng hy sinh, để lại biết bao thương tiếc lẫn niềm tự hào.

Năm 1973, khi Hiệp định Paris về việc lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, thầy trò khoa Văn cùng với cán bộ, sinh viên toàn trường lại trở về Vinh, “đắp móng xây nhà” tạo dựng cơ sở mới trên khu đất trống trơn chỉ có cát bay gió cuốn, quyết thực hiện một cuộc bứt phá mạnh mẽ. Rồi đất nước thống nhất, rất nhiều cán bộ và hàng trăm sinh viên khoa ta vừa tốt nghiệp đã hăng hái vào miền Nam công tác, tăng cường lực lượng cho đội ngũ cán bộ giáo dục và đào tạo vốn còn rất mỏng khi ấy. Khí thế lên đường trong những ngày đó thật rộn rực, không kém gì khí thế lên đường thời chống Mỹ. Chẳng ai ngần ngại khi được phân công về những vùng xa xôi nhất, khó khăn nhất như Cà Mau, Côn Đảo, Phú Quốc, Kiên Giang, Tây Ninh, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum… Đến đâu, cán bộ và sinh viên khoa ta cũng trở thành những thành phần cốt cán, đóng góp rất nghiều cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo của địa phương, nâng cao không ngừng uy tín của “trường Vinh”, của “khoa Văn trường Vinh”.

Từ cuối thập kỷ 70 đến nửa đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, đất nước phải vật mình trong cơn khủng hoảng. Với nhận thức chính trị kiên định, với tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, cán bộ và sinh viên khoa Văn vẫn v­ượt lên để dạy tốt học tốt, để không thẹn với truyền thống tốt đẹp đã có.

Phong trào Đổi mới được phát động từ Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) đã tác động cực kỳ sâu sắc tới toàn xã hội. Cùng với nhà trường, khoa Ngữ văn từng b­ước đổi mới để đạt được những thành tựu quan trọng. Chỉ tiêu tuyển sinh tăng dần. Cán bộ nối nhau đi làm NCS trong nước, ngoài nước. Bên cạnh đào tạo đại học, khoa đảm nhiệm cả việc đào tạo sau đại học. Theo chủ tr­ương phát triển đa hệ, đa ngành của tr­ường, năm 1996, khoa liên kết với khoa Văn và khoa Báo chí Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội mở các lớp cử nhân Báo chí và Văn học, sau đó mở thêm lớp cử nhân Ngôn ngữ. Năm 1998, khoa nhận thêm nhiệm vụ đào tạo cử nhân khoa học chính qui, cử nhân khoa học tại chức. Bên cạnh các mã ngành đào tạo tiến sĩ Ngôn ngữ, thạc sĩ Ngôn ngữ và Lý luận văn học, đầu năm 2004 Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép khoa đào tạo Thạc sĩ ngành Văn học Việt Nam. Năm 2009 bắt đầu đào tạo thạc sĩ ngành Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn Văn và tiếng Việt. Năm 2012, ngành đào tạo tiến sĩ Văn học Việt Nam tuyển sinh khóa đầu.

Bắt đầu từ năm 2013, khoa Ngữ văn được đổi tên là khoa Sư phạm Ngữ văn, xác định nhiệm vụ trọng tâm là đào tạo cử nhân sư phạm chất lượng cao. Khoa cũng đã mở thêm ngành đào tạo cử nhân Báo chí, thể hiện sự đáp ứng nhanh nhạy và tích cực đối với những yêu cầu mới của xã hội, của thời đại bùng nổ hoạt động thông tin – truyền thông. Hiện tại, khoa Sư phạm Ngữ văn thuộc số những khoa có đội ngũ cán bộ khoa học mạnh, số lượng sinh viên, học viên cao học, NCS theo học khá ổn định và luôn đảm bảo chất lượng. Cán bộ trong khoa luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, ứng xử với nhau rất tình cảm, nhân ái; giữa các thế hệ luôn có sự chia sẻ, đồng cảm, tin cậy. Với nền tảng đó, khoa Sư phạm Ngữ văn thực sự trở thành chốn đi về gần gũi của cán bộ, sinh viên, học viên cao học, NCS; là địa chỉ tin cậy để nhiều cơ sở khoa học, giáo dục và đào tạo trong và ngoài tỉnh, nhiều nhà giáo, nhà nghiên cứu, nhiều văn nghệ sĩ… trong cả nước sẵn sàng phối hợp hoạt động.

Nhìn lại chặng đ­ường 57 năm qua, các thế hệ cán bộ và sinh viên khoa Sư phạm Ngữ văn có quyền tự hào về những gì ta đã làm đư­ợc. Khoa Sư phạm Ngữ Văn đã đứng vững trước mọi thử thách do chiến tranh, do cơ chế, do điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt… gây nên; đã khẳng định được uy tín đào tạo và nghiên cứu khoa học rất cao của mình trong hệ thống các khoa Ngữ văn, khoa Khoa học Xã hội của các trường đại học trong cả nước. Khoa Sư phạm Ngữ Văn đã góp phần đào tạo cho đất nư­ớc trên 11.6000 sinh viên các hệ s­ư phạm, cử nhân khoa học (cả chính qui và tại chức), 1.249 thạc sĩ, 21 tiến sĩ. Đội ngũ cán bộ giảng của khoa hiện có 29 ng­ười, với 5 PGS.TS, 9 TS, 14 ThS và 1 CN, đảm nhiệm một khối lượng công việc lớn, từ đào tạo đến nghiên cứu khoa học. Noi theo tấm gương sáng của các bậc thầy từng vang danh trong giới khoa học và giáo dục, đào tạo nước nhà như thầy Lê Hoài Nam, thầy Huỳnh Lý, thầy Nguyễn Gia Phương, thầy Nguyễn Khắc Phi, thầy Lê Bá Hán, thầy Phùng Văn Tửu, thầy Nguyễn Đăng Mạnh, thầy Nguyễn Duy Bình, thầy Trần Duy Châu, thầy Cù Đình Tú, thầy Nguyễn Nguyên Trứ, thầy Trần Gia Linh, thầy Nguyễn Văn Giai, thầy Lương Duy Thứ, thầy Hoàng Tiến Tựu, thầy Trần Đình Sử, thầy Nguyễn Quang Hồng, thầy Phan Thiều,… các thế hệ tiếp nối đã thực sự tự khẳng định về mặt khoa học và mặt đào tạo. Không ít sinh viên của khoa khi ra trường rất thành đạt, có người nắm giữ những chức vụ chủ chốt trong Đảng, trong chính quyền hoặc giữ cương vị lãnh đạo tại các Sở ở nhiều tỉnh thành. Từ bấy đến nay, khoa đã tổ chức thành công hơn 20 hội thảo cấp vùng và cấp quốc gia, xuất bản nhiều công trình tập thể, nhiều kỷ yếu hội thảo, tuyển tập công trình nghiên cứu khoa học. Các cán bộ của khoa đã biên soạn và xuất bản hàng chục chuyên luận, giáo trình, tài liệu tham khảo, hoàn thành hàng chục đề tài cấp bộ, cấp tỉnh, hàng trăm đề tài cấp trư­ờng. Công đoàn khoa luôn hoạt động có hiệu quả, thường xuyên động viên thăm hỏi anh em để khoa thực sự thành tổ ấm của mọi người. Bằng kinh phí tự túc, khoa đã tổ chức đ­ược 4 chuyến tham quan nước ngoài và nhiều chuyến du lịch trong nước. Những thành tích nổi bật ấy đã được ghi nhận qua những phần thưởng cao quý mà khoa được tặng thưởng: Bằng khen Bộ trưởng, bằng khen của Hội liên hiệp khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Bằng khen Trung ương đoàn, Bằng khen tổng liên đoàn lao động, Bằng khen Thủ tướng, Huân chương lao động hạng ba… Nhiều cán bộ trong khoa cũng đã nhận được Huân chương lao động hạng ba, các bằng khen của Thủ tướng, của Bộ Giáo dục và Đào tạo và đặc biệt là danh hiệu Nhà giáo ưu tú...

          Hiện nay, trong vận hội phát triển mới của Việt Nam thời đại toàn cầu hóa, trường Đại học Vinh nói chung, khoa Sư phạm Ngữ văn nói riêng đang đứng trước nhiều cơ hội và cũng đang đối mặt với nhiều thách thức. Thuận lợi của khoa là có bề dày truyền thống đáng nể, hiện có một đội ngũ cán bộ khoa học mạnh, tâm huyết với nghề và đang sung sức, lại được sự quan tâm, giúp đỡ thiết thực và có hiệu quả của các cấp uỷ Đảng và chính quyền… Tuy nhiên, những khó khăn, thách thức cũng không hề nhỏ: đòi hỏi về nguồn nhân lực chất lượng cao của xã hội ngày càng khắt khe; giữa sự phát triển về số lượng và yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo luôn có sự mâu thuẫn; sinh viên ngành Văn thường gặp khó khăn trong tìm kiếm việc làm; sự cạnh tranh để phát triển giữa các trường đại học đang dần bộc lộ như một tất yếu…

          Chặng đường sắp tới, mỗi cán bộ và sinh viên khoa Sư phạm Ngữ văn phải nhận thức được một cách sâu sắc về sứ mệnh, vai trò và nhiệm vụ của khoa trong bối cảnh đổi mới toàn diện và triệt để nền giáo dục Việt Nam đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa đất nước thời hội nhập. Thầy trò phải tiếp tục thực hiện tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và các cuộc vận động lớn của ngành; tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, dân chủ trong khoa, có những giải pháp phù hợp để giữ vững và phát triển sự nghiệp đào tạo; kết hợp chặt chẽ công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học; thực hiện thành công việc chuyển đổi từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo tín chỉ; tiếp tục chăm lo công tác xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ, quan tâm đến tư tưởng, đến đời sống vật chất và tinh thần của sinh viên…