TS.
Nguyễn Hoài Nguyên
Trường Đại học Vinh
1. Đặt vấn đề
1.1. Hiện tại, Nguyễn Nhật Ánh đang
giữ một vị trí đặc biệt trong mảng văn học dành cho thiếu nhi và tuổi mới lớn.
Ông được nhiều người tôn vinh là hoàng tử
bé trong thế giới tuổi thơ. Còn nhà văn Nguyễn Quang Lập nhận xét: Có thể nói mỗi cuốn sách của Nguyễn Nhật Ánh
như mỗi chuyến tàu về tuổi thơ, ở đó có nhiều toa, mỗi toa là mỗi bất ngờ mỗi
thú vị mỗi háo hức mỗi say mê, khi làm ta bật cười, khi làm ta rưng rưng, hoặc
ngồi lặng đi suy ngẫm [Tuổi trẻ,
8.12.2010]. Đọc bộ Kính vạn hoa và hàng
loạt tập truyện dài viết cho tuổi mới lớn của Nguyễn Nhật Ánh, chúng ta dễ đồng
tình với các ý kiến trên.
Ngoài mảng văn xuôi viết cho thiếu nhi
và tuổi mới lớn, Nguyễn Nhật Ánh còn khẳng định tài năng qua nhiều thể tài khác
như thơ, truyện thần tiên phù phủ, bình luận bóng đá, tạp văn,…, trong đó, tạp
văn - thể văn khiêm nhường nhưng đã gắn bó với anh hàng chục năm. Đọc tạp văn
Nguyễn Nhật Ánh, dễ nhận thấy nhà văn sử dụng thành thạo, thể hiện được sự tinh
tế và trong sáng của tiếng Việt. Ngôn từ trong tạp văn của ông trong sáng như
nó vốn có, như lời ăn tiếng nói hàng ngày, không lên gân, không màu mè son
phấn, làm dáng phô trương. Làm nên nét riêng ngôn ngữ tạp văn Nguyễn Nhật Ánh
là giọng văn thủ thỉ tâm tình nhưng đằm thắm và giàu tính nhân văn, dẫn dụ
người đọc đi vào từng miền sâu thẳm của kí ức, từng tầng vỉa những vấn đề thực
tại của đời sống.
1.2. Nhìn chung, những nghiên cứu về
văn xuôi nói chung, tạp văn nói riêng của Nguyễn Nhật Ánh là chưa nhiều. Các
bài viết đã công bố, chủ yếu chỉ giới thiệu các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh từ
góc độ phê bình văn học. Gần như, chưa có một công trình nào nghiên cứu các tác
phẩm của Nguyễn Nhật Ánh có hệ thống từ góc nhìn ngôn ngữ học. Bài viết này,
chúng tôi khảo sát vẻ đẹp từ ngữ nhằm góp phần chứng tỏ ngôn từ tạp văn Nguyễn
Nhật Ánh giản dị mà sâu lắng, giàu chất thơ, thực sự có cá tính. Tư liệu khảo
sát gồm ba tạp văn: Người Quảng đi ăn mì
Quảng [I], Sương khói quê nhà [II],
Thương nhớ Trà Long [III].
2. Vẻ đẹp ngôn từ trong tạp văn Nguyễn Nhật Ánh
2.1. Thực tế sáng tạo văn chương cho
thấy, cách thức tổ chức (thể loại) quyết định sự lựa chọn vật liệu. Do đó, nếu
như từ ngữ trong thơ được lựa chọn do nhiều áp lực (cảm hứng, cá tính sáng tạo,
thể thơ, âm luật,…) thì trong văn xuôi, chúng được sử dụng ít bị ràng buộc hơn,
chấp nhận mọi lớp từ, mọi biến thái, mọi chiều kích trong vốn liếng tiếng nói
dân tộc để tạo nên tín hiệu thẩm mĩ. Khảo sát các bài tạp văn, chúng tôi nhận
thấy Nguyễn Nhật Ánh rất dụng công trong sử dụng các lớp từ tiếng Việt, đặc
biệt là từ hội thoại, từ Hán Việt (xét về mặt phong cách), từ láy, từ ghép (xét
về mặt cấu tạo). Xuống dưới, chúng tôi tập trung khảo sát hai lớp từ ngữ đặc
sắc nhất là từ hội thoại và từ láy.
2.2. Từ hội thoại là những từ được dùng đặc biệt trong lời nói miệng trong sinh hoạt hàng
ngày, nhất là trong đối thoại [3, 22]. Khi thống kê, chúng tôi xem những từ
cổ, từ địa phương cũng thuộc từ hội thoại. Trong 101 bài tạp văn, Nguyễn Nhật
Ánh sử dụng 112 từ hội thoại, có 176 lần xuất hiện. Các từ hội thoại có tần số
xuất hiện cao như nhưn (10 lần), con nít (8 lần), sướng rêm (6 lần), cà chớn (5
lần), tréo ngoe (4 lần), mần (5 lần), mó tay (3 lần), ngồi xổm
(3 lần), è cổ (3 lần), gọn lỏn (2 lần), rác rến (2 lần), hổng lẽ
(2 lần), v.v..
Trong các bài tạp văn, Nguyễn Nhật Ánh
dùng từ hội thoại theo các kiểu cấu tạo khác nhau; mỗi kiểu mang một màu sắc tu
từ thể hiện sắc thái biểu cảm và cảm xúc riêng. Có những từ hội thoại được cấu
tạo theo kiểu dùng một yếu tố đa phong cách kết hợp với một yếu tố, khi đứng
riêng thì không có nghĩa như cũ xì, sướng
rêm, mừng rơn, tréo ngoe, mốc thếch, gọn lỏn, trắng nhởn, v.v.. Những từ
này mang tính miêu tả cụ thể và sắc thái đánh giá mức độ cao. Chẳng hạn: (1) Người lớn vẫn nói những từ văn hoa “năm mới,
ngày mới, xuân mới, nắng mới” nhưng nếu không có áo mới, đối với trẻ con, những
cái mới kia lập tức sẽ cũ xì [III, 32]. (2) Nào ngờ, tới một ngày thầy giáo khen tôi học giỏi môn địa lý khiến tôi
sướng rêm [III, 195]. (3) Trong giấc
mơ, tôi chỉ lượm được tiền xu, thứ tiền trẻ em đánh đáo, vậy mà tôi đã mừng rơn
[II, 94].
Ở các ví dụ trên, Nguyễn Nhật Ánh hồi
tưởng lại năm tháng tuổi thơ với những buồn vui xen lẫn. Từ cũ xì (ví dụ 1) cho ta thấy suy nghĩ và
tâm trạng buồn chán của những đứa trẻ nghèo không có quần áo mới mỗi khi tết
đến xuân về. Nhưng các từ sướng rêm
(ví dụ 2), mừng rơn (ví dụ 3) lại là
niềm hân hoan tột đỉnh mỗi khi được thầy cô khen vì học giỏi, vì lượm được
những đồng xu dù chỉ trong giấc mơ. Có trường hợp, Nguyễn Nhật Ánh dùng kiểu
kết hợp một yếu tố đa phong cách với một yếu tố có nghĩa nhưng chỉ sử dụng
trong giao tiếp khẩu ngữ để miêu tả cụ thể và dụng ý nhấn mạnh. Các kết hợp như
rùn người, ngoác miệng, mó tay, è cổ, trố mắt, mỏi giò,… xuất hiện hết sức tự
nhiên trong tạp văn Nguyễn Nhật Ánh. Chẳng hạn: (4) Cuộc đời cũng vậy thôi, đôi khi trong một tích tắc ta phải quyết định
nhảy lên hay rùn người thấp xuống, cái quyết định nhiều lúc chính ta cũng không
hiểu tại sao [I, 113]. (5) Thế nhưng
tôi cứ thích gói bánh, bị người lớn gạt ra là ngoác miệng nức nở rất ghê để lại
được mó tay vào thúng nếp [III, 29]. (6) Một ông Tây dắt hai đứa con nít vô quán ngồi kêu món cá hấp cuốn bánh
tráng khiến cả thực khách, nhân viên trong quán lẫn tôi đang ngồi bàn bên cạnh
đều trố mắt ngạc nhiên [III, 76].
Ở ví dụ (4), rùn trong rùn người là hạ
thấp, khom (lưng) xuống; ở ví dụ (5), ngoác
trong ngoác miệng là há to ra, mó trong mó tay là bỏ vào, là tham gia; còn trố trong trố mắt ở ví dụ
(6) là mở to mắt, chỉ sự ngạc nhiên quá mức. Các từ hội thoại rùn người, ngoác miệng, mó tay, trố mắt, con
nít (trẻ con), kêu (gọi) làm cho
nội dung miêu tả của các câu văn vừa hết sức cụ thể, sinh động, vừa hàm ý nhấn
mạnh nội dung.
Những từ ngữ hội thoại giàu màu sắc biểu
cảm, cảm xúc như (ngồi) chồm hổm, (dòm)
hau háu, đỏ lơ đỏ lưỡng, (tiếc) hùi
hụi, (sai) bét bè be, ba cọc ba đồng, dẻo miệng,… đi vào câu văn Nguyễn
Nhật Ánh rất tự nhiên. Chẳng hạn: (7) Ngồi
chồm hổm, tay khoanh trước bụng, ánh mắt thèm thuồng dòm hau háu bàn tay đang
gọt thơm của mẹ, sớm muộn gì cũng được mẹ động lòng chia cho một miếng
[III, 16]. (8) Người chồng sẽ không thấy
được hình ảnh người vợ xách giỏ đồ chợ bước vô nhà, mồ hôi bết tóc, mặt mày đỏ
lơ đỏ lưỡng [II, 98]. (9) Người thủa
nhỏ thường ăn mì tôm nhất quyết mì Quảng nhưn gà là lai căng vô lối, phải nấu
như quán bà Cả Ngô ở đầu làng tôi mới đúng, người lớn lên trong mì gà lại một
mực khăng khăng mì Quảng nấu tôm là sai bét bè be, cứ thế mà mặt đỏ tía tai
[I, 63].
Khá nhiều trường hợp, Nguyễn Nhật Ánh
dùng các từ ngữ địa phương Nam Bộ để thể hiện cách nói, cách nghĩ mang màu sắc
địa phương. Các từ ngữ địa phương Nam Bộ có các dạng thức như: dạng thức cổ của
tiếng Việt: mần (làm), dòm (nhìn), nhưn (nhân), phỏng
(bỏng), trợt (trượt),…; dạng thức đặc
hữu Nam Bộ như: ăn nhín (ăn rất ít), thơm (dứa), củ nén (một loại hành), tét
bánh (cắt bánh), quê kiểng (quê
cảnh), gà mên (cặp lồng), rác rến (rác rưởi), hổng lẽ (không lẽ), nháy nhổm
(nhấp nhổm), mậy (mày), lận (tròn vẹn), hổng dè (nào ngờ),…; dạng thức rút gọn kiểu Nam Bộ như: bển (bên ấy), ổng (ông ấy), ảnh (anh
ấy), v.v.. Những dạng thức từ ngữ này được người Nam Bộ sử dụng hết sức tự
nhiên trong giao tiếp hàng ngày. Nhiều từ ngữ địa phương Nam Bộ có tác dụng làm
tinh tế hoá ý nghĩa, làm giàu thêm cho tiếng nói dân tộc. Do đó. trong các tạp
văn, Nguyễn Nhật Ánh rất có ý thức sử dụng những từ ngữ giàu hơi thở đời sống
để diễn đạt những khái niệm, vấn đề, sự việc phức tạp thành giản dị, dễ hiểu,
đồng thời, bày tỏ thái độ, tình cảm chân thành, sâu sắc. Chẳng hạn: (10) Nghe thằng Đạt nói một hồi, tôi mới biết sửa
đường theo kiểu nhà nghèo của ấp Mĩ Đức xét ra cũng chẳng to tát chi, không lát
đá cũng không trải nhựa, chỉ vài ghe sỏi rải lên để người lớn đi mần, con nít
đi học [I, 120]. (11) Cái trò chọc
tức đó đứa nào cũng thích, nhưng cố bắt mình ăn nhín lại trong khi miệng đang
thèm, bụng đang đói không phải đứa trẻ nào cũng làm được [III, 11]. (12) Tôi nheo mắt: Ông qua bển ở một tháng lận mà
sao bảo một ngày? Quốc cười méo xẹo: Một tháng ở Mỹ cũng là cưỡi ngựa xem hoa
thôi. Tôi chỉ viết theo cái ý “đi một ngày đàng học một sàng khôn” thôi
[II, 84].
Qua các ví dụ trên, ta thấy các từ hội
thoại được nhà văn sử dụng trong các bài tạp văn như một công cụ lợi hại nhất
để miêu tả, tái tạo hiện thực đời sống, tính cách nhân vật,… cũng như nhu cầu
bộc lộ tình cảm, cảm xúc, thái độ của người viết
2.3. Từ láy được cấu tạo
theo phương thức láy, đó là phương thức
hoà phối ngữ âm bằng cách lặp lại một bộ phận hay toàn bộ hình thức ngữ âm của
tiếng gốc [2]. Theo cách hiểu này, chúng tôi thống kê từ láy trong 101 bài
tạp văn của Nguyễn Nhật Ánh. Kết quả, từ các tạp văn, có 2348 từ láy được sử
dụng, có 2763 lần xuất hiện. Có thể nói, trong các tạp văn Nguyễn Nhật Ánh, từ
láy xuất hiện dày đặc; nhiều từ láy xuất hiện với tần số cao. Trong các kiểu từ
láy, từ láy hoàn toàn ít được sử dụng; trong các từ láy bộ phận, từ láy âm đầu
xuất hiện nhiều hơn từ láy vần. Những từ láy xuất hiện nhiều lần là: thỉnh thoảng (11 lần), thầm thì (10 lần), hồi hộp (9 lần), phập phồng
(9 lần), thảnh thơi (7 lần), háo hức (6 lần), rõ ràng (5 lần), thẩn thờ
(4 lần), v.v..
Nguyễn Nhật Ánh đã khai thác tối đa
giá trị tạo hình, gợi cảm của từ láy trong các câu văn tạp văn. Trong một câu
văn tạp văn, Nguyễn Nhật Ánh dùng kết hợp nhiều từ láy để diễn tả các trạng
thái cảm xúc, các cung bậc tình cảm và thái độ của mình đối với hiện thực đời
sống. Chẳng hạn, trong câu văn dưới đây, các từ láy ngắm nghía, ríu rít, lênh đênh, chầm chậm, chen chúc dùng để miêu
tả không gian mênh mang sông nước Nam Bộ và bộc lộ cái nhìn trìu mến, tình cảm
gắn bó với không gian sống của nhà văn.
(13) Khách
ngồi dọc băng ghế, tha hồ ngắm nghía cây cỏ hai bên bờ, ngắm chim vừa bay vừa
kêu ríu rít trên đầu, ngắm lục bình trôi lênh đênh trên sóng nước khi phà chầm
chậm trôi, ngắm ô tô chen chúc nhau khoang giữa như cá hộp [III, 74].
Với Nguyễn Nhật Ánh, mảnh vườn nhà trong
một ngày nắng đẹp, cái không gian sống hiện tại được mô tả thật sinh động, thật
lung linh qua các từ láy dùng đúng lúc, đúng chỗ. Cũng từ cái không gian - mảnh
vườn thực tại ấy thức dậy những kỉ niệm về mảnh vườn tuổi thơ trong kí ức: (14)
Cùng với lũ chim sẻ lích chích, lũ ong
bướm dập dìu, những con chuồn chuồn ớt đã cõng trên đôi cánh mỏng manh cả tuổi
thơ nghịch ngợm và ngây ngô, lem luốc và hoa mộng của tôi rồi rủ nhau đậu xuống
hồn tôi vào một ngày nắng đẹp [III, 209].
Trong câu văn trên, các từ láy lích chích, dập dìu, mỏng manh, nghịch ngợm,
ngây ngô, lem luốc đã ghép nối hai miền không gian hiện tại và quá vãng,
diễn tả những hoài niệm về một tuổi thơ quê lấm lem bùn đất nhưng cũng không ít
những dư vị ngọt ngào. Một câu văn mà có đến sáu từ láy, điều đó chứng tỏ cách
dùng từ của Nguyễn Nhật Ánh là có sự dụng công. Từ không gian làng quê, không
gian sông nước,… Nguyễn Nhật Ánh nhìn qua không gian thành phố. Ông đau đáu
trước những bất cập trong cách tổ chức không gian đô thị. Ông thể hiện những
suy tư trăn trở qua các từ láy trong câu văn: (15) Nhà cửa lố nhố, đường sá chật chội, rác rến ngổn ngang, khói bụi mù
mịt, chẳng gì đẹp để ngắm, lại chẳng tiện để đi, công dân thành phố không thèm
dạo chơi là phải lẽ, còn biết trách ai [I, 44].
Trong các từ láy lố nhố, chật chội, rác rến, ngổn ngang, mù mịt thì từ rác rến là từ láy phương ngữ Nam Bộ,
tương đương với từ rác rưởi (nghĩa
khái quát: rác nói chung) trong tiếng Việt toàn dân. Các từ láy trong câu văn
trên ngoài giá trị tạo hình còn là những điểm nhấn tạo nhạc điệu cho câu văn.
Có nhiều trường hợp, Nguyễn Nhật Ánh dùng
từ láy để miêu tả ngoại hình nhân vật, phác hoạ chân dung những người được nói
đến. Đó là người mẹ của Nguyễn Công Khế, Tổng biên tập báo Thanh niên: (16) Hai đứa
nướng khoai ăn rồi lăn ra ngủ trong khi mẹ Khế đội nón xắn quần mải mê cặm cụi
trên vạt ruộng sau nhà, cái hình ảnh người mẹ già lủi thủi, tần tảo nuôi đứa
con côi cút như cánh cò cô đơn lặn lội trong ca dao đến bây giờ vẫn còn ám ảnh
tôi ghê gớm [II, 116].
Các từ láy mải mê, cặm cụi, lủi thủi, tần tảo là cùng trường nghĩa; chúng bổ
sung cho nhau, cộng hưởng để vẽ nên hình dáng lam lũ, nhọc nhằn của người mẹ
luôn vì con. Hình ảnh người mẹ của bạn mình hiện về thật sống động, gần gũi và
thân quý.
Cũng bằng các từ láy, Nguyễn Nhật Ánh đã
miêu tả khá tinh tế về dáng vẻ nhởn nhơ
của các bà vợ khi vào các nhà hàng, siêu thị và bộ dạng tội nghiệp của các ông
chồng cùng đi làm phu khuân vác. Các từ láy rề
rà, nấn ná, lếch thếch trong câu văn sau đây có tính tạo hình rất cao: (17)
Cái sự rề rà, nấn ná của người phụ nữ bên
các quầy hàng, các tủ kính, cái cách thử hết cái áo này đến cái áo khác là cái
cách người đàn ông không hiểu nổi, người đàn ông thấy chóng mặt, thấy đầu váng
hoa mắt, thấy việc ngồi hàng giờ trong quán cà phê bên kia đường để chờ dài cổ
dù sao cũng đáng gọi là cuộc sống thần tiên nếu đem so với cực hình lếch thếch
theo chân các bà [II, 64].
Hồi cố về tuổi thơ của mình, Nguyễn Nhật
Ánh tự hoạ chân dung bằng các từ láy rất phù hợp. Đó là một cậu bé nhà quê luôn
thèm khát cái ăn, dù là một miếng thơm (dứa). Các từ láy chồm hổm, thèm thuồng, hau háu trong câu văn sau đây miêu tả một
cách chi tiết tư thế nhếch nhác của đứa trẻ Nguyễn Nhật Ánh: (18) Ngồi chồm hổm, tay khoanh trước bụng, ánh
mắt thèm thuồng dòm hau háu bàn tay đang gọt thơm của mẹ, sớm muộn gì cũng được
mẹ động lòng chìa cho một miếng [III, 16].
Nhiều trường hợp, các từ láy được sử dụng
để dãi bày những tâm sự, bộc lộ những suy nghĩ, những hoài niệm tuổi thơ. Đó là
những câu chuyện của bà, của bố kể trong giấc ngủ tuổi thơ đem đến cho tác giả
một thế giới đầy âm thanh, màu sắc vừa ngọt ngào hấp dẫn, vừa trĩu nặng ưu tư.
Các từ láy mới mẻ, lấp lánh, hồi hộp, lo
lắng, gập ghềnh trong câu văn sau đây là những điểm nhấn ngữ nghĩa: (19) Chúng gieo vào đầu tôi những hình ảnh mới
mẻ, một thế giới lấp lánh màu sắc, làm dậy lên những hồi hộp lo lắng, mửng vui
qua số phận gập ghềnh của cô Tấm, những kiếp nạn của thầy trò Đường Tăng
[III, 88].
Đó là cảnh nhà phải chống đỡ khi có gió
bão, phải di chuyển nhiều mỗi khi con nước lên. Nỗi vất vả của ba mẹ và cả gia
đình hằn sâu trong kí ức Nguyễn Nhật Ánh. Nỗi niềm ấy cũng được phô diễn bằng
các từ láy: (20) Bây giờ nhớ lại cảnh ba
mẹ tôi tất bật ghì mái nhà bằng dây thừng để gió đừng thổi bay đi, phải hì hục
khuân đồ đạc trong nhà chất lên tấm phản hẹp mấp mé mực nước, bán chén và sách
vở, mền gối và bếp lò, heo và gà… lung tung, vậy mà cuối cùng phải theo ghe
xuồng chạy nạn lên gò đất cao chờ nước rút, lòng tôi không khỏi bâng khuâng,
day dứt [III, 42].
Các từ láy tất bật, hì hục, mấp mé, lung tung, bâng khuâng, day dứt dùng để
nối quá khứ với hiện tại trong dòng suy nghĩ của Nguyễn Nhật Ánh. Trôi theo
dòng hoài niệm tuổi thơ, Nguyễn Nhật Ánh nhớ từ món ốc ruốc, nhớ cách mẹ chế
biến đến mùi vị của món ăn dân dã cho đến thứ quà quê bánh ú mua ở những quán
nghèo. Ngay cả trên đường đi công tác, nhìn thấy những quả thị bày bán bên
đường, Nguyễn Nhật Ánh cũng nôn nao nhớ cây trái tuổi thơ, nhớ mùi thơm của thị
chín quê nghèo. Những kỉ niệm tuổi thơ gọi về từ kí ức được neo lại trong các
từ láy mà tác giả sử dụng thật khéo: (21) Ốc
ruốc sau khi ngâm nước một đêm cho nhả cát, trụng nước sôi cho chín, trộn thêm
gia vị gồm muối, sả, lá chanh, ớt bột,… lập tức thành món ăn vừa cay cay beo
béo vừa mằn mặn, hương vị đậm đà thơm ngon khó tả [III, 186-187]. (22) Cầm tờ giấy bạc, chẳng đứa nào nhờ đứa nào
mua giùm, chỉ háo hức muốn tự tay chìa tờ giấy bạc trước mặt bà hàng, sung
sướng nói như reo “Bà bán cho con cái bánh ú” rồi môi giần giật, tay run run
đón lấy cái bánh, mắt ngời ngời hạnh phúc [III, 9-10]. (23) Tôi đã đem những quả thị về nhà, đặt lên bàn
viết để bồi hồi nghe hương thơm tuổi thơ quấn quýt và nghe quá khứ thao thiết
vọng về [I, 12].
Nguyễn Nhật Ánh hồi nhớ món mì Quảng
đặc sản quê anh, nhớ cách người Quảng đi ăn mì Quảng. Qua cách anh dùng từ láy
trong câu văn dưới đây, người đọc cũng sẽ trân trọng như anh và những người quê
anh trân trọng món thổ sản quê mình.
(24) Họ
bước vào quán bán mì Quảng với bước chân run run, hồi hộp, thắc thỏm, với tất
cả nỗi háo hức, phập phồng như đến điểm hẹn với người quen cũ [I, 64].
Các từ láy run run, hồi hộp, thắc thỏm, háo hức, phập phồng là những từ gần
nghĩa chỉ tâm trạng, chúng cộng hưởng để trân trọng giới thiệu cái cách người
Quảng ăn mì Quảng. Họ không chỉ ăn bằng miệng, bằng vị giác hay khứu giác,
không phải đơn thuần chỉ để thưởng thức cái ngon. Người Quảng đi ăn mì Quảng là
đi ăn bằng tâm trạng. Họ ăn mì Quảng bằng cả tấm lòng, bằng bao nhiêu kỉ niệm
ấu thơ ùa về trong tâm trí, bằng niềm vui của những người tha hương ngộ cố tri.
Nguyễn Nhật Ánh cũng rất có ý thức dùng
từ láy để miêu tả tính cách nhân vật mà trước hết là đặc tính hay cãi của người
Quảng quê anh. Cái cách anh dùng các từ láy oang
oang, cằn nhằn, càu nhàu ở câu văn dưới đây là xác tín “thương hiệu” Quảng Nam hay cãi.
(25) Còn
khi bắt gặp một thực khách người Quảng vừa ăn vừa oang oang nhận xét, đánh giá,
phẩm bình, thậm chí cằn nhằn càu nhàu cái món họ đang ăn, bạn có thể quả quyết
ngay là họ đang ăn mì Quảng [I, 61].
Nguyễn Nhật Ánh dành nhiều bài tạp văn
viết và giới thiệu bạn bè, những người viết cùng thế hệ với anh như Nguyễn Công
Khế, Đỗ Trung Quân, Lê Giang, Chim Trắng, Cao Vũ Huy Miên, v.v.. Anh rất thấu
hiểu bạn mình, nắm biết tính cách mỗi người. Chẳng hạn, với Đỗ Trung Quân, anh
nhận ra tính ngang tàng, phóng khoáng, con
người lang thang của bạn mình chỉ bằng mấy từ láy la cà, long nhong, nhớ nhung, linh tinh.
(26) Đỗ
Trung Quân là kẻ ham chơi, khoái la cà quán xá, khoái chạy xe long nhong ngoài
phố nhiều khi chỉ nhớ nhung linh tinh [II, 83].
Cũng có khi, giữa ồn ào phố chợ, giữa ba
động của cuộc đời, Nguyễn Nhật Ánh muốn tìm một chốn thật yên tĩnh, thả hồn vào
thiên nhiên để lòng lắng lại, thảnh thơi, an nhàn. Trong câu văn dưới đây,
Nguyễn Nhật Ánh đã phác vẽ một không gian thật nhẹ, thật êm qua các từ đu đưa, lích chích, thơm tho, miên man, tí
tách rất phù hợp với tính cách điềm tĩnh, ôn nhu, thanh thoát của anh.
(27) Chiều
ra ngoài vườn, mắc chiếc võng giữa hai gốc khế, vừa đọc sách vừa nằm đu đưa,
tai nghe chim hót lích chích, mũi nghe mùi mực in, mùi giấy mới thơm tho, da
nghe gió mát miên man, hoặc tối nghe mưa rơi tí tách trên mái tôn [I, 78].
Bên cạnh những từ láy toàn dân, Nguyễn
Nhật Ánh còn dùng những từ láy rất lạ, đặc hữu địa phương; đó là những từ láy
đôi như lềnh khênh, rác rến, lằm bằm, sừng sực, lỏng le, lủ khủ,
nháy nhổm, lơn tơn, rôm rốp, lụp bụp, lệt xệt,…; những từ láy tư: đỏ lơ đỏ lưởng, lỏng le lỏng lét, cà lăm cà
lơ, v.v.. Chẳng hạn: (28)…Mà chữ là
nguyên liệu chẳng phải bỏ tiền ra mua. Chữ lềnh khênh trong các cuốn sách, ngổn
ngang trên các trang báo, lấp lánh trên các trang web… [I, 195]. (29) Sức quyến rũ của siêu thị lớn đến mức một
người phụ nữ bước chân vào với ý định chỉ mua một cuộn chỉ thì thế nào cũng trở
ra với một đống quần áo lủ khủ trên tay [I, 74]. (30) Tôi còn nhỏ, lúc đổ nếp lên thân lá rồi rải đậu xanh lên không có gì
trở ngại nhưng đến khi ốp lá rồi cột dây, không sớm thì muộn đòn bánh của tôi
nếu không bung ra thì cũng lỏng le lỏng lét trông như đứa bé mặc quần của người
lớn [III, 29].
Các từ láy lềnh khênh, ngổn ngang, lấp lánh ở ví dụ (28) thì từ lềnh khênh
không có từ tiếng Việt tương ứng. Lềnh
khênh có tính tượng hình rất cao, chỉ sự cồng kềnh, chiếm nhiều chỗ. Trong
câu văn trên, chữ lềnh khênh trong các cuốn sách có nghĩa rất nhiều
chữ trong các cuốn sách. Ở ví dụ (29), từ láy lủ khủ không có dạng thức từ toàn dân tương ứng. Lủ khủ
có nghĩa là nhiều một cách bề bộn. Còn ở ví dụ (30), từ láy tư lỏng le lỏng lét có nghĩa nhấn mạnh, là rất lỏng.
2.4. Sự
tìm tòi, sáng tạo trong nghệ thuật tạp văn của Nguyễn Nhật Ánh là thuộc lĩnh
vực ngôn từ. Hành văn, cách dùng từ của anh có một lối đi riêng, giản dị mà
thâm trầm, hồn nhiên nhưng rất hóm hỉnh. Để hổi tưởng quá khứ tuổi thơ, để trần
thuật sư việc, sự tình, sự kiện, có khi Nguyễn Nhật Ánh chủ yếu dùng từ hội
thoại, có khi dùng từ Hán Việt, có khi dùng từ láy, dùng từ ghép nhưng có khi,
nhà văn dùng kết hợp các lớp từ hết sức hợp lí và tài tình. Chẳng hạn, khi giới
thiệu về món đặc sản mì Quảng, vấn đề được bàn cãi nhiều nhất là cách nấu món
ăn này. Mỗi người đều đưa ra những cách chế biến mì Quảng khác nhau và ai cũng
cho cách nấu của mình là đúng công thức nhất: (31) Giả dụ bây giờ mở một cuộc thi nấu mì Quảng thế nào cho đúng, chắc chắn
thí sinh sẽ ẩu đả với thí sinh, giám khảo sẽ cãi nhau chí choé đỏ mặt tía tai
chứ chẳng chơi [I, 63].
Giọng văn trang nghiêm pha chút hài hước
của Nguyễn Nhật Ánh được thể hiện trong các từ Hán Việt giả dụ, thí sinh, ẩu đả, giám
khảo cùng với các từ hội thoại chí
choé, đỏ mặt, tía tai. Sư hô ứng của các từ trong câu văn giúp người đọc
nhận thấy tác giả rất trân trọng món thổ sản mì Quảng.
Trong nhiều bài tạp văn, Nguyễn Nhật Ánh
thường làm nhoè hiện tại và quá khứ bằng những quan sát hết sức cụ thể, tinh tế
ở thời hiện tại rồi cho chúng trôi theo ý nghĩ miên man của mình: (32) Như mới đây, khi tình cờ nhìn thấy một người
chở thùng bánh tai heo trên yên xe máy chỗ ngã sáu Chợ Lớn giữa một chiều mưa
bụi, tôi sung sướng ngắm chiếc thùng kiếng hình chữ nhật với cái nẹp bằng nhuôm
ở các cạnh thùng chứa lổn nhổn thứ bánh tưởng chỉ còn trong tâm tưởng, và bất
giác nhận ra mình đang hân hoan nhấn ga đuổi theo chiếc xe một quảng dài, giống
như đứa trẻ mải mê đuổi theo cánh diều, để rồi ngẩn ngơ khi chiếc xe mất hút
sau một góc phố đông người [III, 18]. Ở câu văn này, Nguyễn Nhật Ánh đã sử
dụng kết hợp hai lớp từ cơ bản trong tiếng Việt; đó là từ láy gồm sung sướng, lổn nhổn, hân hoan, mải mê, ngẩn
ngơ và từ ghép gồm tình cờ, bánh tai
heo, xe máy, ngã sáu, mưa bụi, hình chữ nhật, tâm tưởng, bất giác, đứa trẻ, góc
phố. Nếu nhìn từ mỗi lớp từ, các từ ghép có vai trò miêu tả sự vật, hiện
tượng, còn các từ láy nghiêng về miêu tả tâm trạng của người viết, nhưng trong
câu văn chúng kết hợp với nhau để làm cho câu văn lung linh, huyền ảo giữa hai
bờ hư thực.
Khá nhiều trường hợp, Nguyễn Nhật Ánh sử
dụng kết hợp nhiều lớp từ trong một câu văn, đoạn văn. Các lớp từ này, khi đứng
cạnh nhau, chúng bổ sung cho nhau để phát huy tối đa hiệu quả thẩm mỹ. Chẳng
hạn, nhận xét cuộc sống của những người Quảng xa quê, Nguyễn Nhật Ánh viết:
(33) Từ xưa, Quảng Nam đã là một trong những địa
phương có con dân đi lưu lạc nhiều nhất nước. Vì vậy nỗi hoài nhớ quê hương
trong lòng người Quảng Nam
xa xứ dằng dặc và rất sâu đậm. Vào Sài Gòn, đa số người Quảng Nam tha hương sống quần tụ tại làng
dệt Bảy Hiền. Để gần gũi nương tựa và giúp đỡ nhau là một lẽ. Lẽ khác, để thoả
mãn cái nhu cầu sâu xa về mặt tinh thần: được sinh hoạt, chung đụng giữa một
cộng đồng thân thuộc. Làng dệt Bảy Hiền tồn tại như một đặc khu, chỉ có đó mới
có bán cái bánh đúc, bánh ú, bánh tráng đỏ, mới có trái dưa gang đỏ, củ nén đỏ,
cục đường bát to đùng, mới ngoảnh tới ngoảnh lui mới nghe được cái giọng Quảng
đặc sệt. Lạc vào khu Bảy Hiền, có cảm giác người Quảng xa xứ đã tìm cách bê
nguyên cái làng ruột thịt của mình theo. Để thoả nỗi hoài cố quận [II, 24].
Đoạn văn trên, Nguyễn Nhật Ánh đắm chìm
trong sương khói quê nhà bằng những
từ Hán Việt: địa phương, lưu lạc, đa số,
tha hương, quần tụ, thoả mãn, nhu cầu, tinh thần, sinh hoạt, cộng đồng, thân
thuộc, tồn tại, đặc khu, cảm giác, cố quận; thể hiện cái nhìn gần gũi, gắn
bó, tình yêu quê hương Quảng Nam bằng các từ khẩu ngữ như chung đụng, to đùng, ngoảnh,
đặc sệt; bộc lộ nỗi nhớ quê hương đằm sâu qua các từ láy dằng dặc, gần gũi; chia sẻ với những
người quê xa xứ bằng những từ ghép con
dân, hoài nhớ, quê hương, sâu đậm, nương tựa, giúp đỡ, sâu xa, bánh đúc, bánh
ú, bánh tráng, dưa gang, củ nén, đường bát, xa xứ, ruột thịt, nỗi hoài.
Trong các từ ghép, các từ hoài nhớ, nỗi
hoài làm người đọc nhớ đến thơ của anh. Ẩn dấu sau trang văn là tâm hồn nhà
thơ tài hoa.
3. Kết luận
Nguyễn Nhật Ánh là một dẫn cứ về tinh
thần lao động sáng tạo, về công phu rèn luyện tay nghề để trở thành một nhà văn
chuyên nghiệp. Cùng với lớp các nhà văn cùng thời như Nguyễn Huy Thiệp, Bảo
Ninh, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Đặng Thân, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Ngọc Tư,…
Nguyễn Nhật Ánh đã có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của văn học thiếu
nhi và tuổi mới lớn, khẳng định được vị trí của mình trong văn xuôi đương đại
Việt Nam.
Xét riêng thể loại tạp văn, Nguyễn Nhật Ánh cũng đã khẳng định tài năng qua cách
sử dụng vốn từ vựng tiếng Việt để tạo nên lời văn kể chuyện duyên dáng và giàu
chất thơ trong Người Quảng đi ăn mì
Quảng, Sương khói quê nhà và Thương
nhớ Trà Long. Các lớp từ hội thoại, từ Hán Việt (phân loại theo phong
cách), từ láy và từ ghép (phân loại theo cấu tạo), qua cách dùng của Nguyễn
Nhật Ánh đã phát huy tối đa hiệu quả thẩm mĩ trong các bài tạp văn. Cố nhiên,
trong bốn lớp từ được sử dụng phổ biến, lớp từ hội thoại và từ láy là đặc sắc
nhất. Các từ hội thoại và từ láy trong tạp văn Nguyễn Nhật Ánh đã trở thành
những mã thẩm mĩ có sức khơi gợi sự đồng cảm, ám ảnh người đọc.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Đỗ
Hữu Châu (1990), “Những luận điểm về cách tiếp cận ngôn ngữ học các sự kiện văn
học”, Ngôn ngữ, số 2, 8-11.
2. Hoàng
Văn Hành (1985), Từ láy trong tiếng Việt,
Nxb Khoa học xã hội, H.
3. Đinh
Trọng Lạc (1995), 99 phương tiện và biện
pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
4. Huỳnh
Như Phương, “Tạp văn Nguyễn Nhật Ánh”, Thể
thao và Văn hoá, số ra ngày 31.08.2012.
5. Đào
Thản (1989), “Một vài đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật trong văn xuôi tiếng
Việt”, Ngôn ngữ, số phụ, 60-68.
TƯ LIỆU KHẢO SÁT
I. Nguyễn Nhật Ánh, Người Quảng đi ăn mì Quảng, Nxb Hội nhà
văn, H. 2005.
II. Nguyễn Nhật Ánh, Sương khói quê nhà, Nxb Hội nhà văn, H.
2014.
III. Nguyễn Nhật Ánh, Thương nhớ Trà Long, Nxb Hội nhà văn, H.
2014.
TT. Đọc tạp văn Nguyễn Nhật Ánh, dễ nhận thấy nhà văn
sử dụng tiếng Việt tinh tế và trong sáng. Ngôn từ trong tạp văn của ông trong
sáng như nó vốn có, như lời ăn tiếng nói hàng ngày, không lên gân, không màu mè
son phấn, làm dáng phô trương. Làm nên nét riêng ngôn ngữ tạp văn Nguyễn Nhật
Ánh là giọng văn thủ thỉ tâm tình nhưng đằm thắm và giàu tính nhân văn, dẫn dụ
người đọc đi vào từng miền sâu thẳm của kí ức, từng tầng vỉa những vấn đề thực
tại của đời sống.
SUMMARY
The beauty of language in Nguyen Nhat Anh’s essays
As
reading Nguyen Nhat Anh’s essays, it is easy to see that the author uses
Vietnamese subtle and pure. The language in his essays is such natural as it
is, as daily communicated language which is not exaggerated, uncolored or
flaunty. That makes an unique language in Nguyen Nhat Anh’s essays is a
sentimental but fervid and humane voice which can guide readers enter in both
deep areas in one’s memories and every aspects in real life issues.